Những câu chuyện thú vị về bà Kiều Đàm Di – di mẫu của Đức Phật Thích Ca

Những câu chuyện thú vị về bà Kiều Đàm Di – di mẫu của Đức Phật Thích Ca
0 Shares

Bà là con vua Thiện Giác nước Câu-lợi, là em hoàng hậu Ma Da và là di mẫu của Thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi xuất gia, bà được gọi với tên là Ma-ha Ba-xà-ba-đề (Mahaprajapati), dịch nghĩa sang Hán ngữ là Đại Ái Đạo.

Hoàng hậu Ma Da sau khi sinh thái tử Tất Đạt Đa được bảy ngày thì băng hà. Di mẫu Kiều Đàm Di thay chị chăm lo cho Thái tử.

Phu nhân Kiều Đàm Di dung mạo xinh đẹp, tính nết đoan trang, hiền hậu, khả ái, phẩm hạnh của bà thật thánh thiện cao cả. Chẳng những trong cung ai cũng ngưỡng mộ cung kính, mà cả Quốc vương Tịnh Phạn cũng rất sủng ái bà. Sau khi hoàng hậu qua đời, bà được đưa vào vị trí thay thế hoàng hậu. Mặc dù sau này bà sinh ra hoàng tử Nan Đà, nhưng vẫn luôn yêu thương Thái tử Tất Đạt Đa như con đẻ.

Lúc Thái tử còn nhỏ, tuy đã có ba mươi hai cung nữ hầu hạ, nhưng phu nhân Kiều Đàm Di vẫn không yên lòng. Bà muốn chính mình tự tay chăm sóc Thái tử từ giấc ngủ, miếng ăn, kể cả việc nhỏ nhất như chọn quần áo v.v… Mỗi mỗi đều một tay bà sắp xếp. Thái tử dù đã mất mẹ, nhưng bù lại được dì thương yêu chăm sóc chu đáo như mẹ ruột.

Mười chín tuổi, thái tử đã nhận biết cõi đời là tạm bợ, thân này không thật nên vô cùng thương xót chúng sinh còn mãi chìm đắm trong ngũ dục, si mê. Ngài muốn tìm cách độ hết thảy chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

Thế rồi, Ngài từ bỏ dục lạc thế gian, một mình vượt thành vào rừng xuất gia tu khổ hạnh. Phu nhân Kiều Đàm Di nghe tin thái tử xuất gia thì đau buồn, nhớ thương bằng sự quan tâm lo lắng của người mẹ khi thấy đứa con cành vàng lá ngọc của mình giờ đây phải chịu sống đời cơ cực, kham khổ giữa núi rừng hoang vu tịch mịch. Nghĩ như thế nên lòng bà đau như cắt.

Trong lần đầu tiên đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ – quê hương trước kia của Ngài – để thuyết pháp, những vị vương tôn trong dòng tộc như hoàng tử Bạt-đề, A-na-luật, Nan-đà đều được Phật hóa độ cho xuất gia, và cả La Hầư La – con trai của Thái tử ngày trước – cũng được thọ giới xuất gia theo Phật.

Xem thêm  Vị Tổ sư Thiền tông đời thứ mười lăm - Tôn giả Ca Na Đề Bà

Phu nhân Kiều Đàm Di nhìn thấy hình ảnh đó, bà phát khởi thiện căn nên đến trước Thế Tôn cầu xin Ngài cho bà được xuất gia nhập chúng theo cùng Tăng đoàn.

Lúc bấy giờ trong tăng đoàn của Phật không có Tỳ kheo ni. Đối với lời cầu xin của phu nhân Kiều Đàm Di, đức Thế Tôn không đồng ý. Ngài bảo bà chỉ nên sống đời cư sĩ tại gia học Phật pháp, quy y Tam bảo, thọ trì năm giới, nếu quyết chí tu cũng có thể được lợi ích lớn lao trong đời này và đời sau.

Nhưng phu nhân Kiều Đàm Di không mãn nguyện với điều đó, nên mỗi lần Thế Tôn trở về cung thuyết pháp bà vẫn kiên nhẫn cầu xin cho bà được xuất gia. 

Một hôm, đích thân bà may hai tấm y đem đến vườn Ni-câu-luật nơi đức Phật ở để dâng cúng. Đức Thế Tôn nói:

– Hai tấm y mà phu nhân dâng cúng, Như Lai hoan hỷ nhận một tấm, còn lại phu nhân nên cúng dường cho chúng tăng.

Được đức Phật nhận y, bà hết sức vui mừng, nhân cơ hội này liền chắp tay bạch Phật:

– Kính bạch đức Thế Tôn! Xin thương xót cho hàng nữ giới chúng con cũng được y theo chính pháp xuất gia, thọ cụ túc giới.

Đức Phật bảo:

– Phu nhân chớ nói như thế! Người nữ tu tại gia cũng là tốt lắm rồi. Nay ta đã xét kỹ, nếu cho nữ giới xuất gia, nhập vào Tăng đoàn của Như Lai thì sẽ có thể gây nhiều ảnh hưởng không tốt đến Tăng đoàn về sau.

Đã ba lần cầu xin đều bị Phật từ chối, nhưng phu nhân Kiều Đàm Di vẫn kiên nhẫn đợi chờ. Với sự chân thành tha thiết muốn được xuất gia và cũng để tỏ lòng thành khẩn, nên sau khi đức Phật đã dẫn Tăng đoàn từ Tỳ-xá-ly về tinh xá Na-ma-đề-ni, bà liền cùng năm trăm người nữ lập nguyện khổ hạnh, đi chân trần đến  tinh xá Na-ma-đề-ni để một lần nữa cầu xin đức Phật cho phép xuất gia. Những đôi chân đài các của hàng mệnh phụ đều bị rướm máu vì trên đường đi đầy chông gai đá sỏi, nhưng họ vẫn quyết tâm đi đến nơi để cầu xin đức Phật cho phép được xuất gia.

Xem thêm  Đức Phật ra đời là sự kiện hy hữu như hoa ưu đàm ngàn năm mới nở

Lúc này, tôn giả A-nan thấy di mẫu và năm trăm người nữ lấy sự khổ hạnh chân trần rướm máu làm hạnh nguyện xuất gia, khiến ngài không đành lòng nên cũng một lòng nói giúp. Ngài tha thiết đến cầu xin Phật lần nữa, lại nhắc đến công ơn của bà Kiều Đàm Di từng nuôi nấng chăm lo cho Thế Tôn từ khi còn ở hoàng cung, thương yêu lo lắng như người mẹ ruột thương con v.v…

Cuối cùng, trước sự kiên trì, thành khẩn của bà Kiều Đàm Di và 500 vị mệnh phụ phu nhân cùng với sự tha thiết khẩn cầu của tôn giả A-nan, đức Thế Tôn nhận thấy không thể nào giải thích để họ từ bỏ sự mong muốn được gia nhập Tăng đoàn, nên Ngài đành miễn cưỡng chấp nhận thỉnh cầu. Tuy nhiên, nhằm hạn chế những bất ổn có thể xảy ra cho Tăng đoàn về sau, ngài đã đưa ra một số điều kiện mà ni giới phải tuân thủ, gọi là Bát kỉnh pháp. Đức Phật dạy rõ, nếu nữ giới có thể tự nguyện vâng giữ theo Bát kỉnh pháp thì cho phép xuất gia.Ngài A-nan bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Nếu đồng ý cho phép họ xuất gia thì dù có đưa ra giới pháp gì họ cũng sẽ hoan hỷ tuân theo.

“Người có ý chí, ắt việc gì cũng thành”. Phu nhân Kiều Đàm Di được xuất gia làm Tỳ kheo ni đầu tiên trong Tăng đoàn, năm trăm người nữ theo bà cũng được xuất gia như vậy.

Về nữ tôn giả Kiều Đàm Di

Nữ Tôn giả Kiều Đàm Di sinh trưởng tại Devadaha, nước Câu Ly (KoLy), một nước nhỏ đối diện với Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu),

Bà là con gái của vua Thiện Giác (Suppa Buddha), em gái của hoàng hậu Ma Da (Mahà Mayà) – vợ vua Tịnh Phạn. Cả hai chị em đều là vợ của vua Tịnh Phạn (Suddhodana)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *