Giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong xét xử vụ án tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Giải pháp chung:
Thứ nhất, Cần sớm hoàn thiện các quy định tại Điều 260 của BLHS hợp lý, khoa học hơn để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Thứ hai, Hoàn thiện các chế độ, chính sách đãi ngộ và cơ chế bảo vệ đối với Thẩm phán và cán bộ công chức Tòa án nhân dân
Bên cạnh việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong công tác xét xử nên cần phải chú trọng đến việc hoàn thiện các chế độ chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán và cán bộ Tòa án nhân dân, vì chức năng của Toà án là xét xử là một công việc đặc thù, trách nhiệm cao và chịu nhiều áp lực, chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với trách nhiệm được giao. Có thể thấy mức lương của thẩm phán tòa án cấp tỉnh, công tác gần 20 năm cũng chỉ tương đương mức lương thiếu úy của lực lượng vũ trang. Như vậy, mức lương của thẩm phán sơ cấp ở cấp huyện sẽ thấp hơn nhiều, do đó cần có sự chăm lo một cách thiết thực cho đội ngũ này, từ đó hoàn thành được mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ tòa án trong sạch, vững mạnh và thực hiện tốt công tác cải cách tư pháp. Mặc dù trong thời gian quan Chế đãi ngộ của Nhà nước đối với cán bộ, công chức của ngành tư pháp có sự quan tâm nhưng “rất khiêm tốn”. Hệ lụy là một số cá nhân, cán bộ chưa gắn bó thiết tha với ngành, cá biệt có một số xin nghỉ việc dẫn đến hiện tượng “chảy máu chất xám”.
Xuất phát từ nguyên nhân bởi những quy định mới của pháp luật về tăng thẩm quyền, phạm vi xét xử. Cạnh đó, những quy định mới trong các luật tố tụng cũng đặt ra ngày càng nhiều yêu cầu chặt chẽ, khắt khe. Chưa kể tới số lượng án của ngày càng tăng, hành vi phạm tội, thủ đoạn phạm tội càng ngày càng xảo quyệt … .
Trong khi đó, Tòa án cũng như các cơ quan khác đều đang thực hiện chủ trương chung của Đảng, Nhà nước về tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế. Chủ trương trong tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy là cần thiết, đúng đắn, tuy nhiên cần đánh giá, xem xét toàn diện, không phải chỗ nào cũng phải tinh gọn, chỗ nào cũng phải giảm trong khi áp lực ngày càng lớn. Bên cạnh đó ngoài chế độ, chính sách, về mặt pháp luật cũng phải có cơ chế để bảo vệ Thẩm phán. Nếu chúng ta làm tốt những việc này thì hoạt động của cơ quan tư pháp sẽ có hiệu quả nhiều hơn nữa và tốt hơn nữa.
Thứ ba, Đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng, nâng cao trình độ năng lực, phẩm chất đội ngũ Thẩm phán và kiện toàn cơ cấu tổ chức ở Toà án
Để nâng cao chất lượng xét xử nói chung và đối với xét xử vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng thì yếu tố con người vẫn là yếu tố đóng vai trò quyết định, đặc biệt là những Thẩm phán, chủ thể trực tiếp áp dụng pháp luật, Do đó muốn thực hiện tốt vai trò của mình và hoàn tốt nhiệm vụ được giao cần có một cơ cấu tổ chức được sắp xếp một cách khoa học và hợp lý, bên cạnh đó để nâng cao hiệu quả và chất lượng xét xử thì phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, bồi dưỡng phẩm chất chính trị cho đội ngũ Thẩm phán là công việc hết sức cần thiết và cần quan tâm. Trong điều kiện kinh tế – xã hội kinh tế, văn hoá có những bước phát triển mới đòi hỏi Thẩm phán phải cập nhật thông tin, trau dồi kiến thức và đổi mới tư duy để hoàn thành nhiệm vụ.
Thứ tư, Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm; hạn chế tình trạng án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật.
Nghiêm túc thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động xét hỏi, tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự; bảo đảm hoạt động tranh tụng có chất lượng; phối hợp với VKS hai cấp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm.
Với kết quả đạt được trong công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đã cho thấy: Các vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ xảy ra đều được khởi tố, truy tố, xét xử kịp thời, không làm oan người không phạm tội, chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, nâng cao chất lượng giải quyết án hình sự, hạn chế được tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung, đảm bảo tội phạm được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương … tạo được lòng tin của Cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp và nhân dân đối với các Cơ quan bảo vệ pháp luật.
Thứ nhất, phải đảm bảo những yêu cầu chung đối với công tác tư pháp nói chung được đề ra trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị là phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm.
Do đó, trong quá trình xét xử vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phải bảo đảm yêu cầu của nguyên tắc pháp chế, phải tuyệt đối tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, phải nhận thức đúng, sâu sắc các quy định pháp luật về phần chung và phần riêng. Việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phải bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, đáp ứng các yêu cầu mà Đảng đề ra và thực hiện đúng chính sách nhân đạo của nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời phải tiếp tục cải cách tư pháp theo tinh thần các Nghị quyết của Bộ chính trị, Ban bí Thư, đó là kiên quyết xử lý và đấu tranh phòng chống tội phạm với phương châm giáo dục phòng ngừa là chính, kết hợp răn đe, giữ nghiêm kỷ cương, cảm hoá con người, đề cao tính nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức đoàn thể xã hội và mọi công dân trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và xác định việc giáo dục người phạm tội là một công việc lâu dài với nhiều biện pháp, tạo điều kiện cho người phạm tội có điều kiện sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, giúp đỡ họ cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
Thứ hai, áp dụng pháp luật phải thống nhất và tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật trong xét xử vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, ngoài ra cần phải căn cứ vào diễn biến, tình hình tội phạm nói chung tại từng địa bàn trong điều kiện về kinh tế, văn hoá ха hội, phải xác định chính xác các nguyên nhân và điều kiện phạm tội để quyết định việc xử lý, bảo đảm hiệu quả trong áp dụng pháp luật, phải tập trung xét xử nghiêm minh, kịp thời có tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội, đồng thời chú ý đến yêu cầu giáo dục, cải tạo, nâng cao ý thức chấp hành luật an toàn giao thông trong quần chúng nhân dân.
Thứ ba, trong xét xử đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phải bảo vệ quyền con người, quyền công dân và phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm.
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận về quyền con người đã là bước phát triển quan trọng và thành tựu trong tư duy cũng như thực tiễn về bảo đảm quyền con người ở nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Các quy định về quyền con người và bảo đảm quyền con người trong hiến pháp là cơ sở hiến định quan trọng để xây dựng hệ thống pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật ở nước ta. Bởi vì, hơn ở đâu hết, hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động phán quyết về hành vi tội phạm của người bị buộc tội và áp dụng trách nhiệm hình sự, biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất đối với người đó; kèm theo đó là hoạt động có thể tác động rất lớn đến quyền con người nói chung, quyền của người bị buộc tội nói riêng và được cụ thể hoá trong BLTTHS năm 2015, nơi mà các quyền của người bị buộc tội như: quyền được im lặng, quyền bào chữa, quyền suy đoán vô tội, quyền không buộc phải đưa ra chứng cứ chống lại chính mình…đã ghi nhận cần được bảo đảm nghiêm chỉnh trên thực tế.
Thứ tư, Đổi mới và đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ: tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp là một trong tám nhiệm vụ cải cách tư pháp mà Nhà nước ta nghiêm túc thực hiện. Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 09/12/2009 của Ban bí thư Trung ương Đảng xác định các nguyên tắc, định hướng, nhiệm vụ và giải pháp trong hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách tư pháp. Với tinh thần đổi mới, chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp đã được các ngành, các cấp triển khai kịp thời, đúng định hướng của Đảng và thu được những kết quả khả quan.
Trong khuôn khổ hợp tác với các nước láng giềng, các nước ASEAN, Việt Nam luôn chủ động, tích cực đề xuất sáng kiến về tư pháp như chủ trì triển khai “Sáng kiến về tăng cường tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại giữa các quốc gia thành viên ASEAN”, tổ chức “Hội nghị Tòa án có chung đường biên giới”, tổ chức hội nghị với các nước ASEAN, Trung Quốc về tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia.
Thứ năm, đối với Thẩm phán, Hội đồng xét xử:
+ Phải nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán, vì Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa là người cầm cân, nảy mực cùng hội đồng xét xử quyết định bị cáo có tội hay vô tội và những vấn đề khác liên quan đến trách nhiệm hình sự.
Để đưa ra được bản án, quyết định duy trì sự nghiêm minh của pháp luật, duy trì kỷ cương phép nước, Thẩm phán cùng các thành viên trong hội đồng xét xử phải nghiên cứu toàn bộ tài liệu trong hồ sơ vụ án một cách độc lập (đánh giá các chứng cứ đã thu thập được, so sánh đối chiếu các chứng cứ với nhau để tìm ra chứng cứ cần thiết liên quan đến việc giải quyết vụ án; không ỉ lại vào kết luận của cơ quan điều tra hay cáo trạng của viện kiểm sát). Đối với việc giải quyết những vụ án hình sự, Thẩm phán phải quán triệt đầy đủ chính sách hình sự của Nhà nước đối với phụ nữ, trẻ em, giá trị tài sản bị thiệt hại.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng phải xem xét những tình tiết, chứng cứ trong hồ sơ có cấu thành tội phạm hay không trên cơ sở phân tích những dấu hiệu chủ quan và khách quan của các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ không? Các yếu tố nhân thân để từ đó cùng hội đồng xét xử đưa ra được bản án, quyết định về vụ án.
Thẩm phán tiến hành nhận thức về vụ án chủ yếu thông qua việc tri giác kết quả nhận thức của cơ quan điều tra nên dễ bị ảnh hưởng của tài liệu điều tra, do đó họ phải tư duy tích cực, căng thẳng, phải có óc khái quát và trí tưởng tượng cao. Thẩm phán phải độc lập và quyết đoán trong quá trình nhận thức về vụ án. Khi nhận thức về vụ án, Thẩm phán phải có ý thức và tinh thần trách nhiệm cao trong việc tìm kiếm, phát hiện những tình tiết, chứng cứ mới và chủ động đánh giá nó để từ đó có thể xét xử vụ án chính xác, khách quan.
Thẩm phán chủ động xây dựng kế hoạch xét hỏi để nhằm đảm bảo cho việc xét hỏi tại phiên tòa được đầy đủ, chính xác, nhanh chóng. Để tạo điều kiện cho Thẩm phán xem xét được hết những tình tiết, những chứng cứ trong vụ án đòi hỏi việc chuẩn bị kế hoạch xét hỏi phải hết sức cụ thể, tỉ mỉ, khoa học. Đồng thời việc chuẩn bị kế hoạch xét hỏi cũng đảm bảo cho Thẩm phán dự đoán được những tình huống có thể xảy ra và chủ động lập kế hoạch giải quyết đối với những tình huống đó. Thực tiễn hoạt động xét xử cho thấy, có những Thẩm phán do không chuẩn bị tốt kế hoạch xét hỏi nên đã xét hỏi tràn lan, không đi vào trọng tâm của vụ án, bị động trước những tình huống xảy ra tại phiên tòa. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng xét xử và hiệu quả giáo dục đối với các đương sự của vụ án và những người tham dự phiên tòa.
Ngoài ra, trong kế hoạch xét hỏi Thẩm phán phải dự kiến những câu hỏi cần thiết, phù hợp và hiệu quả đối với bị cáo, cũng như các đương sự liên quan đến việc giải quyết vụ án. Để đưa ra được những câu hỏi như vậy đòi hỏi Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để nắm bắt được các đặc điểm tâm- sinh lý của các đối tượng sẽ tham gia xét hỏi. Thực tiễn xét xử các vụ án cho thấy đã có những Thẩm phán đưa ra những câu hỏi dài dòng, khó hiểu, hay vừa hỏi vừa giải thích làm cho đương sự khó trả lời; cá biệt có những trường hợp đưa ra câu hỏi có tính chất mớm cung, ép cung .
Trên cơ sở dự đoán, lập kế hoạch cho quá trình thu thập, nhận thức tài liệu về vụ án, Thẩm phán được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án có thể ra những quyết định cá biệt đảm bảo cho quá trình xét xử như: quyết định mời thêm luật sư, giám định viên tham gia phiên tòa trong những trường hợp cần thiết. Theo luật tố tụng khi kết thúc giai đoạn chuẩn bị xét xử, tòa án có thể ra một trong các quyết định sau: quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung.
+ Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp, bản án phải được dựa kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
+ Xây dựng cho nhân dân có lối sống lành mạnh, có ý thức tự giác, hiểu, tôn trọng và chấp hành tốt pháp luật giao thông. Khuyến khích, động viên nhân dân tổ chức xây dựng nếp sống văn hóa, không sử dụng nhiều rượu, bia trong việc cưới hỏi, ma chay, lễ hội, liên hoan cũng như trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt không được sử dụng rượu, bia và chất kích thích khác khi tham gia giao thông. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát để phòng chống người tham gia giao thông sử dụng rượu bia và các chất kích thích khác. Xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông.
Các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể, quần chúng như Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn, Hội luật gia, Hội cựu chiến binh … tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức và ý thức chấp hành pháp luật giao thông cho cán bộ, đoàn viên, hội viên; Thủ trưởng các cơ quan đơn vị cần sớm ban hành quy định cán bộ công chức, đoàn viên, hội viên không được sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông, không uống rượu bia vào buổi sáng, buổi trưa hoặc trong giờ làm việc; chỉ đạo Sở giáo dục đào tạo và Tỉnh đoàn tăng cường giáo dục về an toàn giao thông trong trường học, đưa những nội dung về an toàn giao thông vào giảng dạy cho học sinh, sinh viên; hướng dẫn các trường học phối kết hợp với đoàn trường tổ chức những buổi tọa đàm, sinh hoạt chuyên đề, để tuyên truyền cho đoàn viên, học sinh, sinh viên hiểu, tôn trọng và chấp hành tốt pháp luật về an toàn giao thông; nghiêm cấm việc học sinh sử dụng rượu bia, kỷ luật nghiêm đối với những học sinh, sinh viên vi phạm để làm gương ngăn chặn, răn đe chung.
+ Công an tỉnh tăng cường giáo dục, quán triệt cho cán bộ, chiến sỹ
Cảnh sát giao thông nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính chuyên nghiệp trong thực thi nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông, tăng cường công tác kiểm tra, tuần tra, kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm luật giao thông (nhất là các lỗi trực tiếp gây tai nạn giao thông). Đẩy mạnh phong trào chống tiêu cực trong khi thi hành công vụ. Xử lý nghiêm minh các trường hợp cán bộ, chiến sỹ vi phạm nghiệp vụ, sách nhiễu để bỏ qua các lỗi của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông; chỉ đạo Sở giao thông vận tải tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra, thanh tra giao thông trên các tuyến đường có nguy cơ gây tai nạn giao thông của tỉnh. Tăng cường công tác quản lý hoạt động vận tải bằng ô tô, đồng thời cần sớm có biện pháp khắc phục các yếu tố tiềm ẩn là nguy cơ gây tai nạn giao thông như: đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng; kịp thời phát hiện và xử lý các bất cập về hệ thống hạ tầng giao thông ở địa phương như đường lầy lội, lún, ổ gà, lắp đặt các biển báo, các giải phân cách, hệ thống báo hiệu đường bộ.v.v; Sở giao thông, Sở xây dựng, Sở điện lực, Sở tài nguyên môi trường và các Ban ngành liên quan có kế hoạch cụ thể, lâu dài trong việc quy hoạch điện, đường, trường, trạm; quy hoạch đất giao thông. Không để việc quy hoạch và việc thực hiện quy hoạch bị chồng chéo như đường làm xong thì bị đào lên để lắp hệ thống nước sạch hoặc hệ thống thoát nước gây lãng phí lớn và gây ách tắc giao thông nghiêm trọng. Củng cố kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban an toàn giao thông các cấp, chỉ đạo Ban an toàn giao thông tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an toàn giao thông cho nhân dân; đa dạng hóa các biện pháp và hình thức tuyên truyền để việc tuyên truyền đạt hiệu quả cao.
+ Tăng cường công tác kiểm tra các cơ sở kiểm định an toàn kỹ thuật xe ô tô. Đảm bảo việc kiểm định phải đúng tiêu chuẩn, đầy đủ các quy trình quy định của nhà nước. Tăng cường kiểm tra các cơ sở dạy và học lái xe ô tô, xe mô tô, nâng cao chất lượng trong việc cấp bằng lái xe ô tô, xe mô tô; đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông, kiên quyết xử lý nghiêm cá nhân và tổ chức vi phạm. Ban hành quy chế khen thưởng, kỷ luật và trách nhiệm của Chủ tịch UBND các cấp, Thủ trưởng các cơ quan nhà nước trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
+ Các Cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp và thực hiện tốt công tác tiếp nhận xử lý tố giác, tin báo về tai nạn giao thông, đảm bảo việc khởi tố điều tra, truy tố, xét xử án tai nạn giao thông đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai và bỏ lọt tội phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện phải xử lý nghiêm minh và tăng cường đưa các vụ án về tai nạn giao thông đi xét xử lưu động. Cần xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi phạm tội làm bằng giả, sử dụng giấy phép lái xe giả; kiên quyết xử lý bằng pháp luật hình sự đối với các hành vi tham nhũng, hối lộ có liên quan đến giao thông đường bộ.
Để lại một bình luận